Thứ Năm, 10 tháng 1, 2013

Nghệ thuật Pha trà

Pha trà là một ngệ thuật và người pha trà ngon là một nghệ nhân trong môn nghệ thuật thanh tịnh này.
Khi gặp gỡ người thân, tiếp khách quý hoặc gặp gỡ bạn tri ân, không gì hơn là bạn tạo cho tất cả mọi người có được không khí ấm cúng, thân mật và thanh tịnh bên những chén trà xanh lan toả hương thơm. Tất cả mọi người trút bỏ những bộn bề lo toan và bận rộn đời thường để cảm nhận cuộc sống tao nhã, trầm lắng và thưởng thức hương vị của tự nhiên.
Để có được khoảnh khắc như vậy, gia chủ phải là người thật tinh tế, tinh tế từ việc bài trí không gian để thưởng thức trà, chọn loại trà ngon theo đúng sở thích, pha trà đúng cách và đặc biệt là có tâm trạng thưởng thức trà.
Về không gian thưởng thức trà: Một không gian yên tĩnh, thanh tịnh và một không khí thân mật của những người thân.
 Về cách chọn trà ngon: Trà Việt Nam ngon nhất không thể không kể đến chè Tân Cương Thái Nguyênvì ở đây không khí và thổ nhưỡng phù hợp đã ban cho sản phẩm chè Tân Cương Thái Nguyên một hương vị đặc trưng mà các vùng chè khác không có được và những nghệ nhân hái và sao chè đã liên tục giành cúp “Bàn tay vàng” về sao chè và cúp “Búp chè vàng” về chất lượng chè.
Về cách pha trà: Các nghệ nhân pha trà thường rất khắt khe, lượng trà cho vào mỗi tách có thể nhiều hoặc ít hơn tuỳ theo sở thích của mỗi người nhưng thường từ 2g đến 4g. Nước pha trà ngon nhất là nước mưa sạch hoặc nước lọc được đun sôi và để hạ nhiệt xuống còn 85oc đến 90oc. Chén trà thường không có quai và người người thưởng thức trà khéo léo cầm bằng ba ngón, ngón cái và ngón trỏ giữ miệng chén, ngón giữa đỡ dưới đáy chén. Chén và ấm pha trà được tráng nóng và xếp các chén thành hình tròn trên khay, điều này tưởng chừng thật đơn giản nhưng chứa đầy ý nghĩa: Hình tròn tượng trưng cho sự tòn trịa, viên mãn, làm cho mọi người cảm thấy gần gũi, gắn bó với nhau hơn.  Người rót trà có thể rót đều tay tròn theo hình vòng chén và không nhấc chén lên cho đến khi lượng trà trong mỗi chén đầy bằng nhau hoặc cũng đưa tay rót tròn theo hình vòng chén nhưng sau mỗi chén lại nhấc tay lên để ngắt dòng trà và chuyển qua chén khác. Cả hai cách rót trà này đều làm cho trà trong các chén có mầu sắc và hương và vị đậm đà như nhau và nhất là người thưởng thức trà cảm nhận được tình cảm chia ngọt xẻ bùi và lòng tri ân hiếu khách của gia chủ .
Về tâm trạng thưởng thức trà: Người biết cách thưởng thức trà ngon thường có tính cách điềm đạm, thư thái và một tâm hồn thanh cao, Họ thường uống trà trong lúc tâm trạng trầm ổn, thư thái và tỉnh thức. Họ thường trải lòng mình trước thiên nhiên để cảm nhận hương vị của tự nhiên thanh tịnh.

Đậm đà hương sắc chè Tân Cương – Thái Nguyên

Khám phá khắp chiều dài của đất nước nơi nào qua mà lòng ta lại chẳng cảm thấy yêu thương vô ngần với từng miền quê, với bao phong vị riêng mà tạo hóa đã ưu ái ban tặng để rồi tụ hội cho dải đất hình chữ S tỏa ngàn hương sắc chẳng hề tàn phai qua phong ba lịch sử.
Mỗi một địa phương lại có một sản vật riêng không lẫn vào đâu được và là niềm tự hào vô bờ với bao tâm hồn Việt Nam. Đến với miền đất “đồng khởi” Bến Tre ta nghiêng mình dưới những bóng dừa bạt ngàn tươi mát. Hướng lòng mình về đất tổ Hùng Vương ta thấy mọi bộn bề của bể đời giường như tan biến giữa rừng cọ xòe bóng mát như ôm ấp, như trở che mỗi tấc đất linh thiêng với biết bao con người ưu tú. Rừng cọ đó, nay ta không thể không nhắc đến đồi chè, những đồi chè của  “Thủ Đô gió ngàn” một thương hiệu chè nổi tiếng được trồng ở mảnh đất Tân Cương Thái Nguyên, nổi danh cả nước và là niềm tự hào của mảnh đất Thái Nguyên với bạn bè trong nước và quốc tế.

Nằm cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 13 km về phía tây, Tân Cương là vùng đất bán sơn địa, cảnh quan thiên nhiên đẹp mắt. Bắt nguồn từ những cánh rừng trên núi, các con suối chảy róc rách men theo những chân đồi chảy về tưới mát cho cả vùng chè Tân Cương. Đến nơi đây, vào bất kỳ thời điểm nào ta cũng không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp hùng vĩ, xanh mướt một màu của những nương chè. Nhưng không thể phủ nhận một điều rằng thiên nhiên sẽ tươi đẹp hơn bao giờ hết khi khoe mình trong nhan sắc xanh ngời của mùa xuân. Nếu như trên rẻo cao hoa ban, hoa đào trên núi nở trên các lưng đèo, sườn núi khi mùa xuân đến thì miền đất trung du Thái Nguyên lại như  nở hoa xuân với những búp chè xanh mơn mởn và căng tròn nhựa sống trải dài vô tận trên đồi, trên nương. Mùa xuân ghé qua mang theo cái ấm áp đủ để ta thấy khoan khoái, dễ chịu khi vừa trải qua cái giá lạnh thấu xương da của ngày đông miền bắc. Những cơn mưa phùn lất phất bay đã tưới mát lên những nương chè khô hạn suốt một mùa đông dài. Những búp chè xanh non như cố vươn mình ra để đón lấy những hạt  mưa xuân quý giá, đó chính là bước chuẩn bị tốt nhất cho sự sinh trưởng trước khi vào vụ thu hoạch đầu tiên của năm – vụ xuân. Thế là cả nương chè đã uống đầy tinh túy của đất trời, đã đạt đến độ phát triển chín nhất để người dân có một vụ chè bội thu. Hòa mình trong sương sớm mùa xuân, được thả tầm mắt chiêm ngưỡng tấm thảm xanh mướt dệt lên từ những chiếc “bát úp” xếp hàng thẳng tắp. Mưa xuân lất phất bay đọng lại long lanh trên những búp chè mỡ màng như muốn ướp thêm cho vị trà thêm đậm đà.

Hương vị chè cũng như nói lên nỗi niềm của biết bao con người đã dày công vun đắp lên những nương chè là niềm tự hào của cảnh sắc tự nhiên, là niềm tự hào của mỗi vùng đất hay là của cả một Dân tộc. Vị trà chát và đắng đặc trưng như được thấm trong đó những giọt mồ hôi,những giọt nước mắt của người dân xứ trà tự bao đời, những người đã làm nên thương hiệu không thể mờ nhạt trong tiềm thức của người dân đất việt, trong lòng của bạn bè Quốc tế. Ai mà không biết đến : “Chè Thái, gái Tuyên”.....Sắc xuân về trên  những nương chè làm nên bao ấn tượng thật khó phai dấu về cảnh sắc,về con người và nhất là luôn mang đến niềm hân hoan và tự hào khó tả trong mỗi trái tim con người Thái Nguyên./.

Sách ảnh Chè Thái Nguyên - thông tin phong phú về “đệ nhất danh trà”


Đây là ấn phẩm phục vụ Liên hoan Trà Quốc tế lần thứ nhất - Chè Thái Nguyên, Việt Nam 2011 thể hiện bằng 3 thứ tiếng (Việt, Anh, Trung Quốc); được chế bản điện tử tại Tòa soạn Báo Thái Nguyên và in tại Nhà in của Báo. Xuyên suốt 164 trang sách là những nét đẹp riêng có của vùng chè và Trà Thái.
Qua phần đầu của cuốn sách, bạn đọc sẽ hiểu rõ hơn về những vùng chè trọng điểm của tỉnh, mà ở đó, diện tích, năng suất, sản lượng và chất lượng chè không ngừng tăng lên theo các năm. Người đọc sẽ hiểu rõ hơn ưu điểm của từng vùng chè, nơi nào diện tích, năng suất cao nhất, chuyển đổi sang trồng giống chè mới nhiều nhất và kế hoạch trồng mới, cải tạo chè của những vùng chè trọng điểm trong các năm tới. Cuốn sách cũng dành một phần đáng kể để giới thiệu về năng lực, sản phẩm trà của các đơn vị sản xuất, chế biến và kinh doanh chè trong tỉnh. Đây là những doanh nghiệp đã có thâm niên nhiều năm và sẵn sàng liên kết, hợp tác với những bạn hàng có nhu cầu. Để thuận lợi cho những người muốn tìm kiếm đối tác trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, kinh doanh chè Thái Nguyên, cuốn sách đã đăng tải rất cụ thể các thông tin của doanh nghiệp như địa chỉ, số điện thoại, email...


Điểm nhấn quan trọng trong cuốn sách này là địa chỉ và những thông tin cần thiết của một số cửa hàng, đại lý ở các tỉnh, thành phố trong nước có bán trà Thái Nguyên. Đây là thông tin rất đặc biệt mà từ trước đến nay, những cuốn sách giới thiệu về trà Thái Nguyên không có. Chỉ cần lật giở cuốn sách, tìm kiếm tên tỉnh, đại lý, bấm số điện thoại là có thể mua được trà Thái Nguyên “thứ thiệt” đáp ứng yêu cầu: búp móc câu, ánh xanh, khi pha, nước sóng sánh màu mật ong hoặc màu xanh trong, uống vào thấy chát đậm nơi đầu lưỡi, ngọt nơi cuống họng.

Trong cuốn sách ảnh chè này cũng đăng tải các ý kiến đánh giá của người tiêu dùng trong nước, Quốc tế, các chuyên gia về chất lượng chè Thái Nguyên, qua đó thể hiện được sự khác biệt của sản phẩm trà nơi đây, thấy được những nét tinh tế riêng có mà trà Thái Nguyên mang lại cho những người muốn thưởng trà.

Nhằm giúp bạn đọc gần, xa hiểu được rõ hơn quy trình sản xuất, chế biến, tiêu thụ chè Thái, cuốn sách này đã dành một phần để đăng tải chia sẻ của lãnh đạo, người có trách nhiệm với ngành Chè Thái Nguyên về những tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã và đang được áp dụng vào công tác giống, quy trình trồng, chăm sóc, chế biến chè Thái Nguyên.

Cuốn sách còn mang đến cho bạn đọc những thông tin rất thú vị như: Các Website có giới thiệu và bán chè Thái trên mạng Internet; đưa ra những so sánh về ích lợi của trà và cà phê - 2 thứ đồ uống được ưa chuộng nhất trên thế giới. Ngoài ra là những thông tin về chất dinh dưỡng, tác dụng, công dụng của chè Thái Nguyên; giới thiệu một số hình ảnh về vùng chè Thái Nguyên và bộ ấm trà cổ của nghệ nhân Vũ Quý Nhân, đã đạt kỷ lục ghi - nét Việt Nam...

Với mong muốn cuốn sách sẽ là bạn đồng hành của tất cả mọi người, dễ mang theo bên mình, chúng tôi chế bản sách với khổ nhỏ (20,5cmx14,5 cm) nhưng phong phú về nội dung, đẹp về hình ảnh để bạn đọc có thể tìm hiểu bất cứ thông tin nào về vùng đất “đệ nhất danh trà” này. Hy vọng, ấn phẩm sẽ là cẩm nang cho những ai yêu mến trà Thái Nguyên.


Nguồn: Báo Thái Nguyên

Uống trà xanh chống mất trí nhớ

Các nhà khoa học của đại học Newcastle đã nghiên cứu và khám phá ra rằng trà có thể bảo vệ não bộ chống lại căn bệnh Alzheimer và các dạng khác của căn bệnh mất trí.

Nghiên cứu này cho rằng trà xanh vốn là thức uống ưa thích của người Trung quốc xưa, có thể đóng vai trò quan trọng trong việc phòng chống ung thư.

Ban đầu các nhà khoa học muốn khám phá ra liệu thuộc tính bảo vệ có trong chè có còn lại sau khi chè đã được tiêu hóa hay không. Tiến sĩ Ed Okello của ĐH Newcastle cho biết: “Điều lý thú là chúng tôi đã phát hiện khi chè xanh được tiêu hóa, các chất hóa học sinh ra hoạt động hiệu quả hơn trong việc chống lại bệnh Alzheimer.

Hợp chất được tiêu hóa cũng chứa các thuộc tính chống ung thư, và quan trọng nhất là làm chậm lại sự phát triển của các tế bào khối u chúng tôi sử dụng trong thí nghiệm”.

Hai hợp chất có vai trò quan trọng trong phát triển Alzheimer là hydro peroxyt và protein, hay còn gọi là beta-amyloid.

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng chất polyphenol có trong trà xanh và trà đen ức chế các chất độc và bảo vệ tế bào não.

Khi được tiêu hóa, chất polyphenol bị mất đi và sản xuất ra một hợp chất. Các nhà khoa học đã thực hiện thí nghiệm với hợp chất này trong nghiên cứu của họ. Tiến sĩ Okello cho biết: “Trà xanh được sử dụng trong các bài thuốc cổ truyền Trung Hoa trong nhiều thế kỷ và những nghiên cứu của chúng tôi là những bằng chứng khoa học trả lời cho câu hỏi tại sao trà xanh có tác dụng tích cực chống lại nhiều căn bệnh chúng ta phải đối mặt hiện nay”.

Ông thêm rằng: “Tất nhiên có nhiều nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới bệnh ung thư hay mất trí nhớ như chế độ ăn uống, tập thể dục, lối sống lành mạnh. Tuy nhiên tôi cho rằng rất công bằng khi nói rằng mỗi ngày uống ít nhất một tách trà là phương thuốc kỳ diệu cho sức khỏe".

Văn hóa Trà Tân Cương

Trà có lịch sử lâu đời ở Trung Quốc, văn hóa trà dân tộc thiểu số của Khu Tự trị dân tộc Uây-ua Tân Cương Trung Quốc là một bộ phận quan trọng trong văn hóa trà truyền thống của dân tộc Trung Hoa. Các loại trà như: trà bánh, trà bơ, trà hoa, trà thuốc vv là những thứ không thể thiếu được trong cuộc sống của nhân dân các dân tộc Tân Cương. Mùa hè nóng bức, uống chén trà có thể giải khát; Mùa đông giá lạnh, uống chén trà có thể ấm lòng.

Tân Cương không phải nơi sản xuất ra trà, nhưng vì Tân Cương là đoạn đường tất yếu trên con đường tơ lụa cổ trong hoạt động thương mại, cho nên lượng buôn bán trà cũng rất lớn. Thói quen uống trà cũng dần dần đi vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân các dân tộc Tân Cương.
Ở Tân Cương có câu nói “Trong một ngày, thà không ăn cơm chứ không thể không uống trà”. Qua câu nói này chúng ta có thể thấy trà đóng vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của dân tộc thiểu số Tân Cương, mà điều này lại liên quan chặt chẽ tới thói quen ẩm thực của họ.

Đa số người dân dân tộc thiểu số sinh sống ở Tân Cương là dân chăn nuôi và dân trồng trọt, họ chủ yếu ăn các loại thịt bò, cừu, uống sữa vv, uống trà không những có thể giúp tiêu hóa, giảm ngấy, mà còn có thể bổ sung vi-ta-min. Tổng Thư ký Hội Văn hóa trà Khu Tự trị Uây-ua Tân Cương Lý Viên nói:

“Theo tôi được biết, nhìn từ lịch sử phát triển của văn hóa trà ở Tân Cương, người dân tộc Uây-ua uống trà theo phong cách quý tộc và phong cách bình dân, bất kể là phong cách nào cũng đều rất cầu kỳ. Phong tục uống trà, trà đạo thuộc văn hóa dân tộc Uây-ua có thể sánh vai với trà đạo của Nhật. Tôi từng được thăm một số gia đình trước kia là quý tộc, họ kể lại rằng, lúc bé những túi vải đựng chè phải do các cụ bà có uy tín trong dòng họ may lấy, chẳng hạn như thêu bông hoa màu phấn hồng trên mặt túi, rồi thêu chiếc lá gì cho hợp với hoa, phải do người được chỉ định thêu lấy.. Sau khi cho chè vào túi, phải để túi ở nơi cao hơn đầu người.”

Khi khách ngồi vào bàn, để bày tỏ lòng thành kính, chủ nhà sẽ tráng bát uống chè trước mặt khách, sau đó rót nước tráng vào bát của mình để uống. Tổng Thư ký Hội Văn hóa trà Khu tự trị dân tộc Uây-ua Tân Cương Lý Viên nói:

“Thông qua những lời kể trên, chúng ta có thể thấy rằng trình tự pha trà rất cầu kỳ, cũng rất nghiêm ngặt. Nếu khách không uống nữa phải úp bát, hoặc lấy tay đặt lên miệng bát.”


Đến thăm gia đình dân tộc thiểu số Tân Cương, chủ nhà sẽ rót một bát trà nóng hổi mời khách để bày tỏ niềm hân hoan đón khách phương xa. Chủ nhà nhiệt tình hiếu khách sẽ thiết đãi các loại thức ăn thịt cừu, thịt nướng, sữa chua vv, sau khi uống một chén trà sẽ thấy dạ dày dễ chịu hơn.

Ỏ vùng Ca-chê, Hoà Điền miền nam Tân Cương, có loại trà thuốc dân gian gồm trà bánh, đinh hương, vỏ quế, hồi hương vv, dân địa phương gọi là “Trà Uây-ua”. Tổng Thư ký Hội Văn hóa trà Khu tự trị Uây-ua Tân Cương Lý Viên nói:

“Ở Hoà Điền, nhà nào nhà nấy đều có một ấm pha trà, họ thường cho một nắm trà đã trộn sẵn vào ấm để pha. Loại trà cũng có tên là “túi trà”, do các cụ ở địa phương tự pha chế theo tỷ lệ nguyên liệu nhất định. Lúc uống có vị hơi cay cay, có tác dụng chống cảm cúm. “

Người Hòa Điền thường có tuổi thọ cao, điều này được coi là liên quan với uống trà. Khi trà mới được nhập vào Hòa Điền, người dân địa phương coi trà là thuốc, pha nước uống cùng với cây cỏ, chất khoáng đặc biệt của địa phương, có thể chế biến thành trà thuốc thiên nhiên có tác dụng làm cho con người tỉnh táo, giải nhiệt, giã rượu, giúp tiêu hóa, sống lâu vv.

Ngoài trà bánh, trà thuốc ra, trà bơ cũng là một loại trà quan trọng của Tân Cương. Kết hợp hương thơm, màu sắc của trà và sữa tươi, trà bơ có hương vị thơm phức, độc đáo, trên mặt trà thường phủ một lớp váng sữa, uống rất thơm ngon.

Loại trà Rô-bu-ma được trồng ở bờ sông Ta-li-mu và sông Khổng Tước có thể phòng chống điều trị bệnh cao huyết áp, có tác dụng đặc biệt đối với sức khỏe. Tổng Thư ký Hội Văn hóa trà khu tự trị Uây-ua Tân Cương Lý Viên nói:

“Chè Tân Cương đều nhập từ bên ngoài, trà bản địa chỉ có trà Rô-bu-ma. Trà Rô-bu-ma là một sản vật quý báu của Tân Cương, loại trà này sinh trưởng trong vùng sâu sa mạc, rất sạch, không bị ô nhiễm.”

Ngoài những loại trà nói trên, người Tân Cương còn thích uống trà hoa hồng và chè Hê-gia-lun. Hiện nay, càng nhiều người biết đến chè nội địa và dần dần thích tìm hiểu và thưởng thức trà.

Năm 2002, Khu tự trị Uây-ua Tân Cương thành lập Hội văn hóa trà, tiến hành đào tạo tay nghề pha trà, nghệ thuật pha trà, kiến thức trà đối với nhân viên công tác ở phòng trà, đơn vị hội viên vườn trà, đồng thời cấp giấy chứng chỉ tay nghề dành cho nhân viên đủ tiêu chuẩn. Điều quan trọng hơn là, Khu tự trị Tân Cương đang tích cực bắt tay vào việc khai thác và chỉnh lý văn hóa trà dân tộc thiểu số Tân Cương.

Phó Hội trưởng thường trực Hội Văn hóa trà Tân Cương Thừa Hiến Minh nói:

“Hội sẽ tìm hiểu tình hình thị trường ngành trà, quảng bá văn hóa trà, quan niệm kinh doanh phòng trà, phát triển ngành nghề theo hướng công nghiệp hóa, tổ hợp hàng loạt nhà kinh doanh có năng lực và có tầm nhìn xa trông rộng, lôi kéo sức ảnh hưởng của cả ngành nghề, gây dựng thương hiệu, dẫn dắt toàn ngành phát triển lành mạnh. Quảng bá văn hóa trà, để càng nhiều người hiểu biết về nội hàm của văn hoá trà.”

Chè Tân Cương đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý

Chè Tân Cương đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh uỷ, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XI và quyết định của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, của UBND tỉnh Thái Nguyên về việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” cho chè Tân Cương Thái Nguyên, năm 2006, Sở KH&CN đã phối hợp với Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, UBND thành phố Thái Nguyên xây dựng dự án:”Hoàn thiện cơ sở dữ liệu và thủ tục bảo hộ chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” cho chè Tân Cương Thái Nguyên” với tổng kinh phí của dự án là gần 800 triệu đồng, chia làm hai giai đoạn.
Chè Tân Cương đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý


 
Thu hái chè Tân Cương- Thái Nguyên. Ảnh: NBS.
Thu hái chè Tân Cương- Thái Nguyên. Ảnh: NBS.
Ngày 20/9/2007, Cục Sở hữu trí tuệ- Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Quyết định số: 1144/QĐ-SHTT cấp chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” cho sản phẩm chè Tân Cương TP. Thái Nguyên. 
Đây là 1 trong 5 sản phẩm của Quốc gia được đăng bạ bảo hộ chỉ dẫn địa lý trên toàn quốc.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh uỷ, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XI và quyết định của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, của UBND tỉnh Thái Nguyên về việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” cho chè Tân Cương Thái Nguyên, năm 2006, Sở KH&CN đã phối hợp với Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, UBND thành phố Thái Nguyên xây dựng dự án:”Hoàn thiện cơ sở dữ liệu và thủ tục bảo hộ chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” cho chè Tân Cương Thái Nguyên” với tổng kinh phí của dự án là gần 800 triệu đồng, chia làm hai giai đoạn.

- Giai đoạn 1: Xác định tính đặc thù của chè Tân Cương làm cơ sở để cho việc đăng bạ bảo hộ chỉ dẫn Tân Cương cho chè Tân Cương Thái Nguyên với tổng kinh phí là hơn 400 triệu đồng (nguồn vốn của Trung ương).

- Giai đoạn 2: Thực hiện năm 2007 với việc hoàn thiện hồ sơ xin bảo hộ (nguồn vốn gần 400 triệu đồng từ nguồn vốn sự nghiệp kinh tế của thành phố Thái Nguyên).

Bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm nổi tiếng là cả một quá trình phức tạp đòi hỏi địa phương đứng đơn phải phân tích và chỉ rõ tính đặc thù của sản phẩm mà địa phương định bảo hộ. Đối với chè Tân Cương việc xác định các điều kiện ảnh hưởng quyết định đến chất lượng đặc thù của chè Tân Cương là rất phức tạp. Song với sự chỉ đạo sát sao của UBND tỉnh, của lãnh đạo Sở KH&CN, lãnh đạo UBND thành phố Thái Nguyên và sự nhiệt tình, trách nhiệm của các nhà khoa học. Sau hơn một năm thực hiện với hàng trăm các kết quả thí nghiệm về: đất, nước, khí hậu, hàng chục cuộc hội thảo với người dân địa phương. Các nhà khoa học đã chỉ ra các điều kiện quyết định đến chất lượng chè Tân Cương; ngoài ra các yếu tố: Đất trồng, tập quán canh tác thì yếu tố về khí hậu mà cụ thể là Bức xạ nhiệt. (Các nhà khoa học đã xác định được Bức xạ nhiệt tại cùng Tân Cương có tổng bức xạ nhiệt: 122,4 kcal/cm2/năm, trong đó lượng bức xạ hữu hiệu là 61,2kcal/cm2/năm đếu thấp hơn so với chè khác). Đây chính là yếu tố mang tính quyết định đến chất lượng chè Tân Cương Thái Nguyên.

Trên cơ sở đó ngày 20/9/2007, Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Quyết định số: 1144/QĐ-SHTT cấp chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” cho sản phẩm chè Tân Cương thành phố Thái Nguyên tỉnh Thái Nguyên. Quyết định giao cho UBND thành phố Thái Nguyên là đơn vị tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý Tân Cương, có hiệu lực từ ngày 20/9/2007 và có hiệu lực vô thời hạn.
Chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” cho chè Tân Cương Thái Nguyên bao gồm vùng địa danh tương ứng với 3 xã: Phúc Xuân, Phúc Trìu và Tân Cương với tổng diện tích tương ứng 4.861,8 ha. Chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” cho chè Tân Cương Thái Nguyên là 1 trong 5 sản phẩm của Quốc gia được đăng bạ bảo hộ chỉ dẫn địa lý trên toàn quốc.

Trà Xanh Tân Cương

Chè Tân Cương – Xứng danh đệ nhất danh trà Thái Nguyên
Có một điều đáng nói chính địa danh Tân Cương được hàng triệu người biết đến đó là một địa chỉ tin cậy, hàm chứa một nột văn hóa ẩm thực độc đáo và danh tiếng đó là Trà Tân Cương.
Tân Cương – Một xã nằm ở vùng trung du bán sơn địa của  vùng Việt Bắc thuộc TP Thái Nguyên. Qua nhiều thế hệ, cái nghèo, cái đói, cái khổ, cùng nỗi cực nhọc vất vả của thế hệ cha ông… đã thôi thúc mọi người dân nơi đây vượt lên để làm nên một Tân Cương hôm nay.
Có một điều đáng nói chính địa danh Tân Cương được hàng triệu người biết đến đó là một địa chỉ tin cậy, hàm chứa một nột văn hóa ẩm thực độc đáo và danh tiếng đó là Trà Tân Cương.
Có một điều đáng nói chính địa danh Tân Cương được hàng triệu người biết đến đó là một địa chỉ tin cậy, hàm chứa một nột văn hóa ẩm thực độc đáo và danh tiếng đó là Trà Tân Cương.
Tân Cương – Một xã nằm ở vùng trung du bán sơn địa của vùng Việt chè thái nguyên Bắc thuộc TP Thái Nguyên. Qua nhiều thế hệ, cái nghèo, cái đói, cái khổ, cùng nỗi cực nhọc vất vả của thế hệ cha ông… đã thôi thúc mọi người dân nơi đây vượt lên để làm nên một Tân Cương hôm nay.

Có một điều đáng nói chính địa danh Tân Cương được hàng triệu người biết đến đó là một địa chỉ tin cậy, che thai nguyen hàm chứa một nột văn hóa ẩm thực độc đáo và danh tiếng đó là Trà Tân Cương.

Trên bản đồ của thành phố Thái Nguyên, xã Tân Cương nằm ở phía Tây cách trung tâm hơn10km. Một con đường từ trung tâm thành phố qua các vùng đồi với nhiều khúc quanh đột ngột đã được nâng cấp và làm mới .Thủa xưa chính từ con đường này chè tân cương thái nguyên thế hệ các bà, các mẹ, các chị của vúng đất này đã đi qua bao nhọc nhằn, vất vả, gồng gánh cả mùa đông rét mướt, cả mùa hè nắng lửa trên vai mang chè ra chợ Thái, để có tiền mua các vật dụng thiết yếu cho gia đình.

Tân Cương gắn với hai địa hình tiêu biểu và quen thuộc với bao người ấy là Núi Guộc và Sông Công. Cũng chưa ai giải thích được cái tên núi có tên là Guộc ấy có nghĩa gì trong kho từ vựng của tiếng Việt. Rất có thể đó là một từ cổ mà nhiều đời nay không dùng lại nữa. Gọi là núi nhưng nó cũng chỉ là một quả đồi đất thấp, có đường bao dưới chân, có mấy xóm quây quần xung quanh. Thế hệ đầu tiên khi khai phá Tân Cương đã biến núi Guộc thành một đồi chè kiểu mẫu về phương thức canh tác và năng suất cùng chất lượng chuẩn. Nhưng do tác dụng xâm thực mưa gió, đồi chè đến nay đã mất, chỉ còn lại rừng cây keo lai mới được trồng. 
Sông Công là một nhánh chính của sông Cầu. Đây vốn là một con sông nhỏ, hiền hòa, chảy giữa lòng Tân Cương đem đến cho Tân Cương một cấu trúc hài hòa của nền sản xuất nông nghiệp. Và không gian huyền thoại về mối tình nàng Công, chàng Cốc dường như cũng đem đến chè thái nguyên cho các nương chè một không khí cổ tích thấm đẫm tình đời.

Vượt qua vùng đồi núi khô cằn, Tân Cương hiện ra như chè sạch thái nguyên một bức tranh thủy mặc. Không biết cây chọn người hay người chọn cây làm bạn thủy chung nhưng người dân Tân Cương với cây chè dường chè tân cương thái nguyên như có những nét tính cách tương đồng . Đó là đức tính khiêm nhường và chịu khó.Bởi chỉ nhìn những màu xanh gợi cảm với những đồi chè mâm xôi, bậc thang, hoặc những, ít ai nghĩ rằng mỗi gốc chè phải tạo cho mình một bộ rễ khỏe khoắn, để xuyên phá các vỉa đất. Từ đó cây chè chắt chiu từng giọt nước để cho màu xanh. Cũng hệt như con người nơi đâynhọc nhằn kiếm tìm bát cơm, manh áo trong nắng gió, gian truân để mang đến cho đời hương chè xanh thơm thảo.

Một câu hỏi đặt ra không kém phần lý thú và thiết thực: Vì sao chè Tân Cương lại cho một chất lượng tuyệt hảo như vậy? Hương vị trà Tân Cương dường như luôn tách ra đứng ở một vị trí riêng biệt. Các nhà khoa học chuyên ngành đã dành nhiều tâm huyết, thời gian và trí tuệ đi tìm câu trả lời trước một hiện tượng không đơn giản này. Những công trình nghiên cứu của chè sạch thái nguyên khoa học hiện đại đã cơ bản thống nhất là chính yếu tố thổ nhưỡng và khí hậu có tính đặc thù đã làm nên giá trị phẩm chất của trà Tân Cương.

Về đất đai, các nhà khoa học đều nhất trí nhận định rằng chất đất ở Tân Cương cú chứa những nguyên tố vi lượng với tỷ lệ phù hợp thuộc quyền đặc hữu của cây chè  chè tân cương thái nguyên. Vì chúng được hình thành chủ yếu trên nền Feralitic, macma a xít hoặc phù sa cổ, đá cát... Đất trồng chè ở vùng Tân Cương có độ pH phổ biến từ 5,5 đến dưới 7,0, thuộc loại đất hơi bị chua. Những đồi chè chè thái nguyên nào mọc nhiều sim mua, trên đất sỏi cơm màu đỏ son pha đất sét nhẹ thường cho hương vị chè đượm và có vị ngọt hậu. Đó chính là quyền đặc hữu làm nên hương thơm vị đượm của búp chè Tân Cương.

Về khí hậu, những nghiên cứu gần đây cho thấy vùng tiểu khí hậu phía Đông dãy núi Tam Đảo cao trên dưới 1.000m so với mực nước biển là điều kiện lý tưởng cho phẩm chất chè được hoàn thiện. Nói một cách hình ảnh chè thái nguyên thì dãy núi Tam Đảo là tấm bình phong khổng lồ che chắn ánh nắng mặt trời phía Tây, như một màng lọc tự nhiên của hệ sinh thái, tạo ra ánh sáng tán xạ và một bầu khí quyển tương đối mát mẻ phù hợp với sự phát triển của cây chè để ra đời một sản vật ẩm thực quý giá chè tân cương thái nguyên. Tuy nhiên đó mới chỉ là những yếu tố cần nhưng chưa đủ. Một trong những yếu tố quyết định để cho Tân Cương trở thành danh trà chính là nhờ bàn tay lao động tài hoa của người Tân Cương. 
Cho đến thời điểm này, người dân Tân Cương làm nông nghiệp đang tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng tăng dần diện tích trồng chè . Do vậy từ năm 2005 đến năm 2010, diện tích trồng chè tăng từ 400ha lên 450ha. Sản lượng búp khô đạt trên 1.100 tấn/năm. Năm 2010, tổng giá trị từ cây chè đạt trờn 70 tỷ đồng, chiếm 79% GDP của xã. Giá trị thu nhập từ cây chè đạt 120 triệu đồng/ha/năm, có nhiều hộ chè thái nguyên thu nhập từ 350 đến 400 triệu đồng/ha/năm.Thu nhập bình quân đầu người đạt 15,2 triệu đồng/năm.

Từ cây chè, người dân đang từng bước xây dựng xã Tân Cương to đẹp hơn, đàng hoàng hơn. Đường giao thông đã được bê tông hóa đến tận chè sạch thái nguyên các xóm ngõ, những ngôi nhà khang trang mọc lên khắp nơi. Điều kiện làm việc của bộ máy chính quyền được cải thiện. Trường học 3 cấp đều đạt chuẩn quốc gia mức 1 và 2. Cùng với nhà thờ giáo xứ chè tân cương thái nguyên Tân Cương, chùa Y Na đã được chè tân cương thái nguyên xây mới sau mấy chục năm bị phá hủy do tác động của thời gian, chiến tranh tàn phá. Các tín đồ đạo giáo đoàn kết chia sẻ mọi kinh nghiệm cùng nhau xây dựng cuộc sống tốt đời đẹp đạo được thừa hưởng từ quá khứ càng vững bước đi lên giàu đẹp và văn minh.

Trong tâm hồn mỗi người dân Tân Cương vẫn lưu giữ những ký ức hào hùng của một thời chiến tranh ái quốc vĩ đại, nơi đây là chiếc nôi đào tạo các sỹ quan chỉ huy của những binhđoàn anh hùng gắn liền tên tuổi Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, Trung đoàn Tu Vũ , Trường Quân chính quân khu Việt Bắc… với những chiến công khắp 3 miền đất nước…

Có thể nói những gì mà chè thái nguyên -Tân Cương có được hôm nay là phần nhiều là nhờ được hưởng lộc của thế hệ ông bà mình. Chính họ - những nông dân của vùng chiêm trũng Nam Định, Thái Bình mang theo nền văn minh Sông Hồng lên đất Thái đó bất chấp gian khó, hiểm nguy khai phá rừng đại ngàn mở ra một vùng đất trù phú cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Đây cũng là cuộc hành hương đầu tiên có quy mô mang tính xã hội của người nông dân vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng lên khai phá vùng trung du chè tân cương thái nguyên.

Dù cuộc sống mới đầy thử thách khắc nghiệt, những thé hệ dầu tiên đã họp nhau đặt tên cho vùng đất mới là Nam Đồng, có nghĩa nơi hội tụ những người cùng quê Nam Định. Sau những biến động của xã hội, thôn Nam Đồng lúc sơ khai ngày đó, nay thành 5 đơn vị hành chính cấp xóm là: Nam Đồng, Nam Hưng, Nam Thái, Nam Tân, Nam Tiến. Xóm nào cũng gắn với chữ“Nam”. Thế mới biết, cái truyền thống của mỗi vùng đất ăn sâu vào tâm hồn con người như gien di truyền không dễ dầu gì biến đổi được. 
Từ cây chè, người dân đang từng bước xây dựng xã Tân Cương to đẹp hơn, đàng hoàng hơn. Đường giao thông đã được bê tông hóa đến tận các xóm ngõ, những ngôi nhà khang trang mọc lên khắp nơi. Điều kiện làm việc của bộ máy chính quyền được cải thiện. Trường học 3 cấp đều đạt chuẩn quốc gia mức 1 và 2. Cùng với nhà thờ giáo xứ chè tân cương thái nguyên Tân Cương, chùa Y Na đã được xây mới sau mấy chục năm bị phá hủy do tác động của thời gian, chiến tranh tàn phá. Các tín đồ đạo giáo đoàn kết chia sẻ mọi kinh nghiệm cùng nhau xây dựng cuộc sống tốt đời đẹp đạo được thừa hưởng từ quá khứ càng vững bước đi lên giàu đẹp và văn minh.
Trong tâm hồn mỗi người dân Tân Cương vẫn lưu giữ những ký ức hào hùng của một thời chiến tranh ái quốc vĩ đại, nơi đây là chiếc nôi đào tạo các sỹ quan chỉ huy của những binhđoàn anh hùng gắn liền tên tuổi Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, Trung đoàn Tu Vũ , Trường Quân chính quân khu Việt Bắc… với những chiến công khắp 3 miền đất nước…
Có thể nói những gì mà chè thái nguyên -Tân Cương có được hôm nay là phần nhiều là nhờ được hưởng lộc của thế hệ ông bà mình. Chính họ - những nông dân của vùng chiêm trũng Nam Định, Thái Bình mang theo nền văn minh Sông Hồng lên đất Thái đó bất chấp gian khó, hiểm nguy khai phá rừng đại ngàn mở ra một vùng đất trù phú cho các thế hệ hôm nay và mai sau.  Đây cũng  là cuộc hành hương đầu tiên có quy mô mang tính xã hội của người nông dân vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng lên khai phá vùng trung du chè tân cương thái nguyên.
Dù cuộc sống mới đầy thử thách khắc nghiệt, những thé hệ dầu tiên đã họp nhau đặt tên cho vùng đất mới là Nam Đồng, có nghĩa nơi hội tụ những người cùng quê Nam Định. Sau những biến động của xã hội, thôn Nam Đồng lúc sơ khai ngày đó, nay thành 5 đơn vị hành chính cấp xóm là: Nam Đồng, Nam Hưng, Nam Thái, Nam Tân, Nam Tiến. Xóm nào cũng gắn với chữ“Nam”. Thế mới biết, cái truyền thống của mỗi vùng đất ăn sâu vào tâm hồn con người như gien di truyền không dễ dầu gì biến đổi được.
Dân Tân Cương đời trước truyền cho đời sau lòng biết ơn người đã khai sinh ra xã mình. Đó là Ông Nghè Sổ. Ông Nghè Sổ tên thật là Nguyễn Đình Tuân, quê làng Trâu Lỗ nay thuộc xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Ông sinh năm Đinh Mão (1867), đỗ đầu tiến sĩ khoa Tân Sửu (1901) đời vua Thành Thái. Sau đó được bổ nhiệm làm tuần phủ kiêm án sát của xứ Thái Nguyên lúc bấy giờ. Theo nguyện vọng và đề nghị của dân, trong đó có cả những người từng đi lính cho Pháp ụng Nghè Sổ đó cho lập một đơn vị hành chính mới có tên gọi là chè tân cương thái nguyên Tân Cương. Cũng từ ấy, người dân Tân Cương đã tôn  ông Nghè Sổ lên Thành Hoàng Làng. Một vài chi tiết trong thư mục bảo tàng có nhắc đến việc ông Nghè Sổ từng gợi ý và tạo điều kiện cho xã Tân Cương một hướng làm ăn mới bằng cách đưa cây chè về trồng. Người thực thi ý tuởng này là ông Vũ Văn Hiệt, tên thường gọi là ông Đội Năm. Ông sinh năm 1883, quê xã Bạch Xam huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên. Khai khẩn đất hoang, gây dựng cây chè trên vùng đất mới ông Đội Năm được người dân coi là ông tổ của nghề chè nơi đây:
Đối với cây chè thủa mới khai sơn mở đất ấy phải mất chừng 4, 5 năm người trồng chè mới được thu hoạch. Điều suy nghĩ mang tính thời sự cho đến ngày nay là vì sao, người dân Tân Cương lại hăm hở bắt tay vào xây dựng một vùng chuyên canh cây công nghiệp hoàn toàn xa lạ với truyền thống canh tác của người nông dân ? Câu trả lời chính là đằng sau tất cả những gian khổ, chè tân cương thái nguyên thách thức của thủa đầu tiên đi mở đất ấy là một cuộc bứt phá rất can trường của những người nông dân Việt. Đó là tuy họ vẫn ở trong thửa ruộng mà đã bắt đầu có tầm nhìn vượt thời gian khi đưa cây chè trở thành 1 thức uống đặc sản của người Việt.    
Xin nhấn mạnh một lần  nữa là vào thời điểm đó là một phương thức hoàn toàn xa lạ với truyền thống canh tác của người nông dân vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng lên miền trung du lập nghiệp. Nhân đây xin kể tiếp câu chuyện ông tổ nghề chè Tân Cương là Ông Đội Năm. Lấy xúm Guộc là tâm điểm ông Đội Năm đó cất nhà và xây dựng cơ sở chế biến chè chè tân cương thái nguyên . Từ đó biến đất rừng nơi đây và dọc hai bên bờ sông Công thành những bãi chè. Về sau ông còn mở rộng trồng chè sang xóm Bình Định đối diện với xóm Guộc bên hữu ngạn Sông Công.
Tất cả các hộ mới lên khai hoang lập nghiệp ở xúm Guộc và xúm Nam Đồng đều đồng loạt khai phá đất hoang để trồng chè như ông Cựu Vạn, ông Phó Xuân, ông Đội Chí, ông Bá Cư... Nhưng đất chè của ông Đội Năm rộng hơn cả, có thời gian phải thuê mướn hàng chục lao động mới đảm đương được công việc. Ở các xóm phía Bắc của xã như Hồng Thái, Đội Cấn, Gò Pháo ngày nay, nhiều gia đình cũng bắt tay vào trồng chè.  
Giống chè được trồng ở Tân Cương, theo tư liệu của Trại chè Phú Hộ thuộc tỉnh Phú Thọ  là thuộc giống chè lá to và xanh được lấy từ huyện Thanh Ba. Đây là giống chè bản địa được chọn lọc và xác định là rất phù hợp với vùng trung du Bắc Bộ. Chè được trồng bằng hạt, thường trồng vào vụ Đông Xuân hàng năm. Mặc dầu ít học nhưng lớp cư dân tiền bối đó tuân thủ nghiêm ngặt kỹ thuật canh tác thời bấy giờ. Chè được trồng theo khóm, mỗi khóm 4 cây xếp theo hình vuông, mỗi cạnh 20cm,  hàng cách hàng cũng như khóm cách khóm từ 1,5 đến 2m tùy theo độ dốc. Kích thước trên được áp dụng cho tất cả mọi địa hình. Đồi chè ngày đó vuông vức, thẳng tắp như điểm binh chè thái nguyên.
Do đất đai ngày đó rất màu mỡ, độ phì rất cao nên cây chè phát triển nhanh, chỉ 3, 4 năm khóm chè đã xòe tán rộng tới cả mét. Giữa các luống chè được trồng xen canh khoai, sắn, đậu, lạc... Cũng là một phương thức lấy ngắn nuôi dài.
Năm 1925 được đánh dấu như một cái mốc quan trọng của chè Tân Cương khi các diện tích đồng loạt cho sản lượng cao. Ông Đội Năm đã cho mở hiệu chè bán buôn, bán lẻ ở khu vực làthành phố Thái Nguyên ngày nay và bắt đầu quảng cáo cho nhãn hiệu chè Tân Cương trên khắp 3 miền đất nước. Các tài liệu khoa học còn lưu giữ đến nay khẳng định, thương lái nước ngoài như Ấn Độ.... đã có mối giao lưu mua bán với hãng chè của ông Đội Năm. Để khẳng định thương hiệu của chè Tân Cương chè thái nguyên, ông Đội Năm lấy nhãn hiệu bao bì là chè “Con Hạc”. Có người giải thích con hạc mang hình tượng búp chè 1 tôm, 2 lá. Có người bình luận làng chè hướng về cội nguồn dân tộc, Hạc là loài linh điểu được thờ cúng  của người Việt.
Năm 1935, hãng chè Con hạc của ông Đội Năm đoạt giải nhất trong cuộc thi đấu xảo ở Hà Nội,  tương tự như giành huy chương vàng trong Hội chợ thương mại ngày nay, mở ra một thời kỳ làm ăn phát đạt có ảnh hưởng khá lớn với thị trường trong nước và thế giới. Lớp người trẻ ngày nay hầu như không còn nhớ những thập kỷ đầu tiên người sản xuất chè chè thái nguyên chế biến và thưởng ngoạn như thế nào. Bài viết này xin được tái hiện một cách tượng trưng các công việc ấy.
Thời xưa công việc hái chè là do phụ nữ làm còn xao chè là phần việc của đàn ông. Chè hái về phải được để hong trong nhà, không được ủ đống. Chè phải được xao trong ngày mới không bị nồng. Nếu hái vào lúc trời mưa cũng làm cho chè giảm chất lượng.
Đến công đoạn vò chè lại được giao cho phụ nữ. Lúc bấy giờ người ta chủ yếu vò chè bằng chân trên nong sau khi xao héo lần một. Sau khi chè đã xoăn dần mới chuyển sang vò bằng tay. Đến khi xao khô lại chuyển cho đàn ông xao trên chảo. Đây là giai đoạn quyết định chè có ngon và cánh có đẹp hay không. Chè có thơm ngon, vị đượm hay không ở giai đoạn này phụ thuộc vào việc cảm nhận nhiệt của người xao chè. Giai đoạn  đánh mốc lấy hương cũng thuộc về tay nghề, tài nghệ của mỗi người. Chảo lấy hương thường là chảo cỡ nhỏ, xao trên than củi đang nguội dần. Thường sau khi xao khô phải để chè nguội rồi mới đánh mốc, lấy hương thì chè mới không bị nổ hoa sói hoặc có mùi oi khói. Bàn tay lấy hương trà được ví như chiếc hàn thử biểu, cần có sự điều chỉnh độ nóng của lửa để cho một nhiệt độ phù hợp trong lòng chảo. Trong toàn bộ các công đoạn chế biến chè từ khi búp chè như ngọn rau tươi đến khi các cánh trà khô kiệt thì việc lấy hương đòi hỏi sự tinh luyện, sự thành thạo trong thao tác đã biến những người sản xuất thành các nghệ nhân, đó là nghệ nhân làng chè. Khi trà trên chảo được xoa nóng, cánh trà chuyển dần từ màu xanh đen sang màu lốm đốm bạc, người làm chè gọi là trà mốc cau vì nó màu đốm trăng trắng như hoa cau non. Sau đó Trà mốc cau được cho vào lọ sành, hoa sói được gói trong vải cũng được cho vào lọ. Miệng lọ thường được đậy bằng nút lá chuối khô.
Trà khô chè tân cương thái nguyên có đặc điểm hút các hương thơm thăng hoa trong không khí. Nó lặng lẽ hút tẩm vào cánh trà thứ hương hoa được giữ kín trong lọ . Khác với trà ướp hoa Nhài và trà ướp hoa Sen, trà hoa sói cho hương vị trầm. Khi thưởng ngoạn một chén trà, hương hoa sói không bốc lên mà nó thấm ngược trở lại lòng đất, thấm vào các giác quan của cơ thể , cho người thưởng ngoạn một cảm nhận ấm nồng như đất đai vậy.
Vài ba thập niên đầu tiên trên vùng chè, người Tân Cương thời đó hầu như không uống trà mặc dầu bàn tay họ làm ra trà. Có nhiều cách lý giải hiện tượng xã hội này. Có người cho rằng do hoàn cảnh khó khăn cần chắt chiu sản phẩm; Có người cho đó là bản chất tằn tiện của nông dân. Hiện tượng trên bắt đầu thay đổi khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Lớp người từ các đô thị tản cư đổ về Tân Cương. Các đơn vị quân đội đóng quân khắp các ngõ xóm. Trường học kháng chiến được mở đón học sinh mọi miền về học. Đó là cuộc di chuyển mang tính xã hội có quy mô lớn, làm thay đổi sâu sắc tư duy và tập quán của một vùng thuần nông. Với sự hội tụ ấy, Tân Cương đó trở thành một điểm hẹn văn hóa sụng Hồng. Và từ đó văn hóa ẩm thực Trà Tân Cương cũng có điều kiện lan tỏa khắp các vùng miền của đất nước.
Thời kỳ đầu của vùng chè Tân Cương việc sản xuất còn manh mún, mọi nhà đều tự thu hái, sơ chế, tự sản tự tiêu theo kiểu sản xuất nhỏ, năng suất thấp.  Đến thập kỷ 70 – 80 của thế kỷ 20, ngư­ời trồng chè Tân Cư­ơng đã nhận thấy muốn nâng cao năng suất và phẩm chất chè phải tăng mật độ chè, chống xói mòn và chuyển sang phương thức thâm canh. Quá trình lao động là một quá trình cải tiến không ngừng công cụ sản xuất. Tuy nhiên riêng việc thu hái chè vẫn phải hái thủ công. Từ lâu, công đoạn hái chè hầu hết đều dành cho phụ nữ. Tuy không nặng nhọc nhưng việc hái chè lại đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ. Thông thường đối với chế biến chè xanh, kỹ thuật hái búp chè là “một tôm hai lá, một cá hai chừa” để cây chè vẫn đảm bảo tái sinh và phẩm cấp đạt yêu cầu chế biến. Nhưng do yêu cầu của kinh tế hàng hóa và nhu cầu của khách hàng, người sản xuất chỉ hái “một tôm” để làm ra loại chè đặc sản có giá cao gấp nhiều lần trà thông thường. Loại chè ấy có cái tên khá ngộ nghĩnh là chè  đinh 
Sự phát triển nghề chè là một dòng chảy không ngừng nghỉ trong dũng chảy của văn hóa ẩm thực Việt. Ở Tân Cương đó có thêm rất nhiều làng nghề chè mới. Cuộc sống lao động kiên trì và sáng tạo đó giúp cho trà Tân Cương có đẳng cấp cao ở thị trường trong nước và thế giới. Nhưng dù có phát triển đến thế nào thỡ thế hệ hôm nay luôn ghi nhớ công ơn của lớp người đi trước. Thế hệ nối tiếp thế hệ đó và đang gắng sức trong công cuộc xây dựng nông thôn mới trên vùng quê chè Tân Cương . Bởi đây sẽ là nền tảng , là bệ phóng để đưa nghề chè Tân Cương có những bước phát triển đầy hứa hẹn ở phía trước
Với mong muốn chống việc kinh doanh hàng giả, hàng nhái mượn tiếng “chè Tân Cương”đang nhan nhản ở khắp nơi người dân Tân Cương còn đang mong muốn tổ chức thành một tổ hợp sản xuất-chế biến-đóng gói-dán nhãn hiệu chè xanh Tân Cương theo đúng thương hiệu có bản đồ địa lý chỉ dẫn xuất xứ và nguồn gốc địa phương; Hay mạnh dạn hơn là làm lại nhãn hiệu chè Con hạc như ông Đội Năm đã thành công từ cách đây gần 80 năm về trước.
Chè Tân Cương - Xứng danh Đệ Nhất Danh Trà.
Có một điều đáng nói chính địa danh Tân Cương được hàng triệu người biết đến đó là một địa chỉ tin cậy, hàm chứa một nột văn hóa ẩm thực độc đáo và danh tiếng đó là Trà Tân Cương.

Tân Cương – Một xã nằm ở vùng chè thái nguyên trung du bán sơn địa của vùng Việt Bắc thuộc TP Thái Nguyên. Qua nhiều thế hệ, chè sạch thái nguyên cái nghèo, cái đói, cái khổ, cùng nỗi cực nhọc vất vả của thế hệ cha ông… đã thôi thúc chè tân cương thái nguyên mọi người dân nơi đây vượt lên để làm nên một Tân Cương hôm nay.

Có một điều đáng nói chính địa danh Tân Cương được hàng triệu người biết đến đó là một địa chỉ tin cậy, hàm chứa một nột văn hóa ẩm thực độc đáo và danh tiếng đó là Trà Tân Cương.

Có một điều đáng nói chính địa danh Tân Cương được hàng triệu người biết đến đó là một địa chỉ tin cậy, hàm chứa một nột văn hóa ẩm thực độc đáo và danh tiếng đó là Trà Tân Cương.
Tân Cương – Một xã nằm ở vùng trung du bán sơn địa của vùng Việt chè thái nguyên Bắc thuộc TP Thái Nguyên. Qua nhiều thế hệ, cái nghèo, cái đói, cái khổ, cùng nỗi cực nhọc vất vả của thế hệ cha ông… đã thôi thúc mọi người dân nơi đây vượt lên để làm nên một Tân Cương hôm nay.

Có một điều đáng nói chính địa danh Tân Cương được hàng triệu người biết đến đó là một địa chỉ tin cậy, che thai nguyen hàm chứa một nột văn hóa ẩm thực độc đáo và danh tiếng đó là Trà Tân Cương.

Trên bản đồ của thành phố Thái Nguyên, xã Tân Cương nằm ở phía Tây cách trung tâm hơn10km. Một con đường từ trung tâm thành phố qua các vùng đồi với nhiều khúc quanh đột ngột đã được nâng cấp và làm mới .Thủa xưa chính từ con đường này chè tân cương thái nguyên thế hệ các bà, các mẹ, các chị của vúng đất này đã đi qua bao nhọc nhằn, vất vả, gồng gánh cả mùa đông rét mướt, cả mùa hè nắng lửa trên vai mang chè ra chợ Thái, để có tiền mua các vật dụng thiết yếu cho gia đình.
Gần một thế kỷ trước khi đưa giống chè Phú Thọ vào canh tác trên đất Tân Cương, có lẽ ông Đội Năm đã tiên đoán loại chè này rất trường thọ. Ngày nay người, nhà nhà ở đất Tân Cương đã và đang nối nghiệp chè luôn ghi ơn các bậc trưởng bối. Người đã chọn đất, đất đã ưa thì cây cứ hồn nhiên sinh tồn và phát triển, dù trang sử thời cuộc hay thân phận của mỗi con người có lúc thịnh, lúc suy. Đời của mỗi người thì đã qua và rồi lại sẽ qua nhưng ở đất Tân Cương này, với những gì quý báu đang được kế thừa chắc chắn nghiệp chè vẫn cứ phát triển và trường tồn mãi mãi, để nơi đây xứng danh là “ Đệ nhất danh trà của Thái Nguyên”.